Thật vậy, Chúa, một sản phẩm do óc tưởng tượng của con người tạo ra, không phải là nạn nhân của giáo hội, mà nạn nhân chính là những con người bằng xương bằng thịt, máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, như Giêsu khi còn sống, như các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, và như tất cả mọi người chúng ta. Chúa đã chết trên thập giá từ lâu. Chúa không bị giáo hội Công Giáo tù đầy, tra tấn cực hình, thiêu sống, giết chóc v…v…, mà chính là con người, hàng chục triệu con người. Phạm tội đối với con người mà lại xưng tội cùng Chúa, một nhân vật đầy huyền thoại tính và không có một căn bản thuyết phục nào, về hiện thực cũng như về khoa học, để chứng tỏ rằng Chúa có thể chuộc tội hay tha thứ tội lỗi của con người, một nhân vật đã được một số đệ tử dựng lên với nhiều chi tiết mâu thuẫn và sai lầm như được viết trong Thánh Kinh, thì chuyện “xưng tội cùng Chúa” đúng là chuyện phi lý, chỉ có giáo hội Công Giáo mới có thể làm như vậy. Giáo hội vẫn giữ thái độ kiêu căng tự tôn của thời Trung Cổ: cho rằng chỉ có Chúa là có quyền tha tội cho giáo hội. Đây cũng là điều mà khi xưa giáo hội đã từng áp dụng ở bất cứ nơi nào giáo hội có quyền hành và ở thế mạnh: những linh mục, giám mục v..v.. của giáo hội, bất cứ họ làm điều ác ôn nào, không ai có quyền phán xét họ ngoài Giáo hội. Nói tóm lại, Chúa chỉ là cái bung xung mà giáo hội đưa ra để tha hồ làm điều ác, vì làm xong chỉ việc xưng tội với Chúa, xin Chúa tha tội là ký ức đã được thanh tẩy, là mặc cảm tội lỗi đã được cất bỏ, là lương tâm lại yên ổn để tiếp tục làm ác, nếu ở vị thế có quyền hành và có cơ hội thuận tiện. Chúa chỉ là cái bình phong giáo hội đưa ra để che đậy, bảo vệ và duy trì định chế độc tài của chính giáo hội chứ thật ra chẳng làm gì có chuyện Chúa tha tội hay không tha tội. Chúng ta cũng biết, ở Việt Nam, khi các con chiên phàn nàn về mấy ông linh mục làm bậy thì giám mục “bề trên” cũng khuyên rằng: “các con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa”. Điều này có nghĩa là “cha cũng như Chúa”, đưa Chúa ra làm bung xung che đỡ cho những hành động bậy bạ của các cha “bề trên”. Nhưng ở Bắc Mỹ thì tín đồ Công Giáo tiến bộ hơn nhiều. Tín đồ đã đưa hơn 5000 ông “cha cũng như Chúa” can tội cưỡng dâm trẻ phụ tế và nữ tín đồ vị thành niên ra tòa, và kết quả là nhiều ông “cha cũng như Chúa” vào tù ngồi đếm lịch, chờ ngày lên thiên đường hưởng nhan thánh Chúa, và giáo hội đã phải bỏ ra gần 2 tỷ đô la để trả tiền tòa phạt bồi thường cho các nạn nhân. Tiền ở đâu mà giáo hội có nhiều thế? Chắc chắn một phần là do giáo dân đóng góp “để giáo hội làm việc thiện xã hội.”
Nhưng xét cho cùng thì vấn đề chính là: Nếu chúng ta không thể tha thứ cho những sự độc ác của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng không thể tha thứ cho 7 núi tội ác của Giáo hội Công giáo La Mã. Tại sao chúng ta không thể tha thứ cho Thiên Chúa? Bởi vì đọc trong Thánh Kinh, người ta đã đếm số người mà Thiên Chúa giết bừa bãi là 2,270,365+ gồm cả đàn bà và trẻ con, đó là chưa kể số người chết trong nạn Hồng Thủy, trong thành Sodom và Gomorrah v..v.. hay trong các bệnh truyền nhiễm như dịch hạch mà Thiên Chúa gây nên không thể đếm được, trong khi Satan chỉ giết có 10 người. Về Công giáo, trong giòng lịch sử, Giáo hội Công giáo đã giết nhiều người hơn Thiên Chúa của họ gấp bội. Do đó những người có lương tâm của con người như chúng ta làm sao có thể tha thứ cho những tội ác của giáo hội Công giáo?
Không tha thứ cho Giáo hội Công giáo không có nghĩa là bắt giáo hội phải đền tội, chúng ta không có khả năng như vậy. Không tha thứ cũng không có nghĩa là chúng ta phải mang lòng hận thù và có những hành động bạo hành đối với giáo dân Công giáo. Chúng ta không muốn như vậy, người Việt Nam chúng ta văn minh tiến bộ không như người Công giáo, tàn bạo đối với những người khác đạo. Nhưng điều mà chúng ta có thể làm để tỏ thái độ không tha thứ của chúng ta, đồng thời có tính cách xây dựng, là thường xuyên nhắc lại 7 núi tội ác của Công giáo để giáo dục những người Công giáo cho đến khi mọi người Công giáo và người ngoại đạo đều ý thức được cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Công Giáo để mà sửa mình, giữ mình, chọn cho mình một con đường tâm linh lành mạnh hợp lý, đầu óc không mang gánh nặng tỳ vết của sự bạo tàn, vô luân, phi dân tộc hay phản dân tộc.
ZALO:
bog:
©️video bản quyền: hiệp bá đạo
©️nhà xuất bản : hiệp bá đạo , không được reup dưới mọi hình thức
Nguồn:https://madisonrep.org/
Trái lại, Công Giáo du nhập vào Việt Nam qua giới cùng đinh thất học bằng những phương pháp truyền đạo xảo quyệt, đượm màu mê tín hoang đường, thí dụ như của thừa sai Alexandre de Rhodes [Xin đọc bài Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ”: Nhân Đọc Cuốn “Hành Trình Và Truyền Giáo” Của Alexandre de Rhodes” trên http://sachhiem.net/TCNtg/TCN50.php] xuyên tạc sự thật, và mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức và cấu trúc văn hóa của xã hội Việt Nam. Ngoài ra nhiều thừa sai Công Giáo còn trắng trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa trong xã hội Việt Nam. Họ ru ngủ đám tín đồ thấp kém bằng những điều mê tín hoang đường, bằng một đức tin vào những giáo điều tín lý khô cứng, phi lôgic, phản khoa học, bằng những hứa hẹn vô trách nhiệm vào một niềm tin “xác chết ngày sau sống lại” để có “sự sống đời đời”, do sự “cứu rỗi” của một Thiên Chúa đã chết trên cây thập giá cách đây 2000 năm và chưa bao giờ xuất hiện để cứu bất cứ ai v..v… Những giáo sĩ thừa sai đầu tiên có ảnh hưởng trong việc truyền đạo không phải là những nhà tu hành đạo đức mà là những tên gián điệp như Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Lambert de la Motte v..v.., hoặc những tên lính đánh thuê như Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), hoặc những tên thực dân như Retord (thầy của Trần Lục), Gauthier (thầy của Nguyễn Trường Tộ), Puginier, Huc, Pellerin v..v.. Nhưng bất hạnh nhất cho Việt Nam là Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ của Công giáo đã thành công trong việc đào tạo được một lớp tín đồ trong những giới thấp kém nhất của xã hội Việt Nam, sẵn sàng phản bội dân tộc, tiếp tay với thực dân Pháp vì một cái bánh vẽ trên trời cho riêng mình. Lời thú nhận của giám mục Puginier “Không có các thừa sai và giáo dân Công giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gãy hết càng” về vai trò quyết định của giáo dân Việt Nam trong sự hỗ trợ đoàn quân xâm lăng của Pháp là một bằng chứng. Sự kiện linh mục “Trần Lục mang 5000 giáo dân đến hỗ trợ quân Pháp để hạ chiến khu kháng chiến Ba Đình” là một bằng chứng khác. (Xin đọc chi tiết những sự kiện trên trong cuốn Công Giáo Chính Sử, chương VIII.) Bản chất của Giáo hội Công giáo Việt Nam chỉ là một mớ tín đồ hạng hai. Công giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng 400 năm sau (1933) mới có một giám mục đầu tiên (Nguyễn Bá Tòng). Nhưng tệ hơn cả là Giáo hội này hoàn toàn lệ thuộc Vatican bất kể là những quyết định của Vatican xâm phạm đến chủ quyền dân tộc và xúc phạm đến nền văn hóa của Việt Nam tới đâu. Lịch sử cho thấy quyền lợi của Vatican luôn luôn đối nghịch với quyền lợi của Việt Nam. Chừng nào mà tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn.
Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm với những đòn phép của Vatican. Việt Nam không thể không dè dặt khi đối diện với một thế lực quốc tế đã có 2000 năm kinh nghiệm trong những thủ đoạn thần học, chính trị, xã hội, kinh tế v..v.. để lạc dẫn tín đồ vào con đường mê muội, tuyệt đối tuân phục và theo lệnh của một thế lực thế tục ngoại quốc núp sau cái vỏ tôn giáo. Với một tổ chức vô cùng chặt chẽ, với một tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đô la, với đa số tín đồ thấp kém cuồng tín tạo thành một lực lượng hậu thuẫn khó lường, với những phương tiện truyền thông bao trùm mọi lãnh vực v..v.., trước đây, không có một quốc gia nào có thể coi thường thế lực của Vatican. Tuy nhiên, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, và vì thanh gươm (để giết người) và bó củi (để thiêu sống người) đã bị tước khỏi bàn tay đẫm máu của giáo hội Công giáo, ngày nay, Vatican không còn khả năng để khuynh loát những thế lực tôn giáo đối nghịch với Công Giáo. Những biện pháp quyết liệt của Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan v..v.. và của các khối Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo, Tin Lành Giáo đối với vấn nạn Công Giáo đã có thể ngăn chận và giảm thiểu âm mưu thống trị tôn giáo của Vatican trên hoàn cầu.
Những biện pháp ngăn chận này thực ra rất hợp lý và chính đáng. Tại sao? Vì trong một bài diễn văn đọc tại Maribor, Slovenia, ngày 19 tháng 5, 1996, giáo hoàng Công Giáo Gion Pôn Hai đã kêu gọi các quốc gia phải bảo tồn nền văn hóa dân tộc, nguyên văn như sau:
“Các quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ như là một biểu thị của phẩm cách quốc gia”
Giáo hoàng thừa biết rằng, nền văn hóa Á đông nói chung, Việt Nam nói riêng, tuyệt đối không tương hợp (incompatible) với nền văn hóa Công Giáo của Tây phương. Vậy có cách nào mà sách lược truyền đạo của Công Giáo sang Á châu không đụng chạm tới những nền văn hóa dân tộc của các nước Á Châu? Thật vậy, như trên đã nói, nền văn hóa Việt Nam cũng là nền văn hóa Phật Giáo. Phật Giáo, một tôn giáo nhân bản, không chấp nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa, do đó không chấp nhận huyền thoại sáng tạo của Công Giáo, một huyền thoại mà tuyệt đại đa số người dân trên thế giới đã dứt khoát bác bỏ, vì huyền thoại này không còn một căn bản thuyết phục nào trước những bằng chứng tràn ngập trong khoa học về sự sinh ra của vũ trụ, tuổi của vũ trụ, và sự xuất hiện của loài người trong định luật tiến hóa. Tất cả những bằng chứng này đều trái ngược với những điều hoang đường phi thực tế, phản khoa học ở trong Thánh Kinh. Mặt khác, Công Giáo là một tôn giáo thờ một vị Thần do con người thời tiền sử tưởng tượng ra, và cho như vậy là có giá trị nhất, mọi tôn giáo khác chỉ có giá trị nếu quy phục vị Thần Công Giáo đó. Do đó, với chủ trương độc tôn này, thực chất của sách lược truyền đạo sang Á Châu là một cuộc xâm lăng văn hóa. Để gìn giữ phẩm cách quốc gia, Á châu nói chung, Việt Nam nói riêng, phải có bổn phận bảo vệ nền văn hóa của mình. Giáo hoàng không thể nói một đàng: khuyên mọi quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ, rồi làm một nẻo: mưu toan xâm lăng và dẹp bỏ các nền văn hóa phi Công Giáo của họ ở Á Châu . Cho nên, Giáo hoàng, hoặc bất cứ thế lực tôn giáo cũng như thế tục nào khác, đều không thể lên án những biện pháp ngăn chận sự truyền đạo của Công Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, ở Á Châu ngày nay là vi phạm nhân quyền, hay vi phạm tự do tôn giáo.
Với kinh nghiệm qua những vụ tòa Khâm Sứ và ở Thái Hà gần đây, Việt Nam chắc hẳn đã thấy rõ bản chất của những người Công giáo Việt Nam như TGM Ngô Quang Kiệt và một số linh mục khác, những người đã dẫn dắt đám con chiên ở dưới, kể cả bà già và con nít, vào những hành động bất chấp luật pháp như thế nào. Mong rằng Việt Nam cương quyết giữ vững lập trường trong chính sách đối ngoại và đối nội phù hợp với sự mong ước của tuyệt đại đa số người dân ngõ hầu có thể tránh cho Việt Nam một hiểm họa mà hậu quả không sao lường được.
Trần Chung Ngọc
Đái ỉa vào mõm bọn giáo hoàng và linh mục
Nếu tui không lầm thì trước năm 1954 ở VN không có danh từ Công giáo, khi đó người ta gọi là đạo Thiên chúa.Từ khi ông Diệm lên nắm quyền và theo yêu cầu của Vatican thì mới có danh từ Công giáo tại VN. Ông Diệm bắt buộc phải sử dụng danh từ đó trong giấy tờ , sách vở, văn bản hành chính…, từ đó về sau này người ta mới gọi là Công giáo.
Nam mô a di đà phật !
Hy vọng qua những công trình vất vả nghiên cứu của ban đến được những con chiên nghe và vén bức màn bí mật này, và họ hiểu được họ bị nhào nặn theo ý kitô giáo bây lâu nay.giọng đọc hôm nay nghe đi nghe lại mấy lần vẫn thấy thương ❤"buồn ngủ 😴😘🙏
TA CHỈ GÓP Ý CHUNG …
ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI LÀ GỐC
KHG ĐÚNG & KHG SAI ..
NHÂN VÔ THẬP TOÀN
MONG CHO CON NGƯỜI
ĐỀU THỨC TỈNH NHAU
KHG HAY OÁN THÙ
MUÔN ĐỜI HẠNH PHÚC
( Tội do mình tạo …mình mang )
Xin lỗi các bạn! Vì 3 nghiệp ko siêng năng, đọc lâu, vấp váp, làm phiền lòng các bạn! Xin các bạn tha thứ!
Cảm ơn bạn 👍
Bài này mình đọc trong tâm trạng rất buồn ngủ. Cả ngày phải đi làm! Tối về làm video! Đọc không suôn sẻ, mong các bạn hoan hỷ ! Chân thành cảm ơn!
Nam mô a di đà phật !
đạo kitôgiao chống phá chính quyền phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân. Cái đạo kitôgiao này tay sai thực dân pháp chúng luôn luôn tìm cách chống phá xâm lược VIÊT NAM
Sao đâu mất tiêu ùi ạ